Lịch sử Đền_Mây

Đằng Châu

Địa danh Đằng Châu có từ thời Bắc Thuộc. Năm 1005, Nhà Tiền Lê đổi Đằng Châu thành phủ Thái Bình. Vùng đất thuộc tỉnh Hưng Yên ngày nay.

Đằng Châu vốn là một căn cứ quân sự, nơi đóng quân của tướng Phạm Bạch Hổ thời 12 sứ quân

Hiện nay chỉ còn địa danh làng Đằng Châu, phường Lam Sơn, thành phố Hưng Yên.

Tướng quân Phạm Bạch Hổ

Bài chi tiết: Phạm Bạch Hổ

Theo “Đại Nam nhất thống chí”, Phạm Bạch Hổ sinh ngày 10 tháng 1 năm Canh Ngọ (910), thân phụ là Phạm Lệnh Công người lộ Nam Sách Giang (nay là Kim Thành- Hải Dương). Lệnh Công có tiệm buôn lớn ở Đằng Châu - Kim Động - Hưng Yên (nay là Xích Đằng - Lam Sơn - Hưng Yên).[2]

Theo thần tích xã Ðằng Châu, thân mẫu tướng quân Phạm Bạch Hổ một hôm đi chợ về, qua làng Ðằng Châu, gặp mưa to gió lớn, phải trú vào ngôi miếu, thấy ánh hào quang rực sáng, liền đó gặp hổ trắng hiện lên. Bà kinh hãi ngất đi, tỉnh lại trời đã tạnh. Sau bà về có mang, sinh ông ngày 10 tháng 1 năm Canh Ngọ (922), đặt tên là Phạm Bạch Hổ. Tráng niên, Bạch Hồ theo Ngô Quyền có tài thao lược, trừng trị Kiều Công Tiễn và đánh quân xâm lược Nam Hán. Ðất nước thanh bình, ông xin Ngô Quyền về đất cũ Ðằng Châu khai hoang lập ấp. Năm 965, 12 sứ quân nổi lên chiếm giữ các vùng. Phạm Bạch Hổ (xưng Phạm Phòng Át) chiếm giữ Châu Ðằng trong ba năm (965 - 967). Ðinh Bộ Lĩnh thu phục 12 sứ quân, chấm dứt tình trạng cát cứ. Cảm phục tài đức của Ðinh Bộ Lĩnh, Phạm Phòng Át đem quân theo về, được vua Ðinh phong chức Thân vệ tướng quân, luôn được vua trọng dụng. Vào ngày Rằm tháng 11, có một đám mây vàng sà xuống dinh Bạch Hổ. Ông theo mây vàng mà bay đi. Dân Ðằng Châu nhớ ơn công đức, tôn ông là Vua Mây và xây miếu thờ ông gọi là Ðền Mây. Ở làng Ngọc Ðồng, huyện Kim Ðộng xây lăng thờ ông, vì thế trong dân gian có câu: "Miếu làng Ðằng, lăng làng Ðồng".

Lịch sử đền Mây

Các ghi chép để lại đều cho rằng đền Mây được xây dựng từ thời nhà Đinh. Tương truyền đền thần rất linh thiêng. Cuốn “Việt điện u linh” khi nói đến thần thổ địa ở Đằng Châu - Hưng Yên có chép: xưa Vua Lê Long Đĩnh khi chưa lên ngôi, có thực ấp ở Đằng Châu, thường bơi thuyền dạo chơi. Một hôm thuyền đang trên sông bỗng mây kéo đến tối sầm, gió thổi rất mạnh, mưa to sắp đổ xuống, Long Đĩnh tìm nơi trú ẩn, thấy trên bờ sông có đền, mới hỏi người làng: “Đền thờ thần gì”, người làng thưa: “đây là đền thờ thần thổ địa”, Vương hỏi “có thiêng không?” thưa rằng “đây là chỗ dựa của một châu, lễ cầu mưa, cầu tạnh đều rất ứng”. Vương bèn nói to lên rằng: "Nếu thần khiến được mưa gió thì nay thử khiến cho bên này sông tạnh, bên kia sông mưa. Thế mới thật là thiêng!”. Nói xong quả nhiên nửa sông bên kia mưa rất to, nửa sông bên này chỉ có gió mát. Long Đĩnh không bị ướt, lấy làm lạ mới sai tu bổ đền thờ.

Trải qua thời gian, Đền Mây đã được trùng tu, tu sửa nhiều lần. Ngày nay, kiến trúc ngôi đền vẫn mang đặc trưng nghệ thuật chạm khắc thời Hậu Lê và thời Nguyễn.